Acute toxicity là gì? Các công bố khoa học về Acute toxicity

Acute toxicity là khả năng của một chất gây ra ảnh hưởng tiêu cực và gây chết người trong một khoảng thời gian ngắn sau khi tiếp xúc hoặc tiếp thu chất đó. Các ...

Acute toxicity là khả năng của một chất gây ra ảnh hưởng tiêu cực và gây chết người trong một khoảng thời gian ngắn sau khi tiếp xúc hoặc tiếp thu chất đó. Các triệu chứng của acute toxicity có thể bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn mửa, trầm cảm hô hấp, suy tim hoặc tổn thương cơ thể nghiêm trọng khác. Chất gây acute toxicity có thể là các hợp chất hóa học, thuốc, độc tố tự nhiên hoặc các chất độc khác.
Acute toxicity được đo và đánh giá dựa trên nồng độ và thời gian tiếp xúc với chất độc. Nồng độ càng cao và thời gian tiếp xúc càng dài, nguy cơ gây ra tác động độc tính sẽ càng lớn. Một số cách thức tiếp xúc với chất độc có thể bao gồm hít phải, nuốt chất, tiếp xúc da, hoặc tiếp xúc qua màng nhày mắt.

Các hiện tượng và triệu chứng của acute toxicity có thể khác nhau tùy vào loại chất độc và mức độ tiếp xúc. Một số triệu chứng như buồn nôn, nôn mửa, đau đầu, chóng mặt và tăng nhịp tim thường xảy ra. Trong các trường hợp nghiêm trọng hơn, acute toxicity có thể dẫn đến các vấn đề hô hấp, tim mạch, thần kinh và gan.

Việc xác định mức độ acute toxicity của một chất được thực hiện thông qua các phương pháp thử nghiệm trên động vật hoặc dựa trên dữ liệu từ những nghiên cứu đã thực hiện trước đó. Các dữ liệu này cho phép xác định LD50 (liều lượng gây tử vong ở 50% số cá thể trong một nhóm động vật) và giúp đánh giá mức độ độc tính của chất.

Acute toxicity là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực đánh giá nguy hiểm và an toàn hóa học. Để đảm bảo sử dụng an toàn các chất độc hại, canxi kẽm hàng ngày secure sử dụng các test acute toxicity để đánh giá mức độ độc tính và xác định các biện pháp bảo vệ sức khỏe phù hợp.
Trong việc đánh giá acute toxicity, một số thông số quan trọng được sử dụng:

1. LD50 (Liều lượng chết người ở 50% người thử nghiệm): Đây là một chỉ số quan trọng để xác định mức độ độc tính của một chất. Được tính toán dựa trên liều lượng chất độc cần thiết để gây tử vong ở 50% số người thử nghiệm trong một nhóm. LD50 thường được thử nghiệm trên động vật để xác định mức độ độc tính của một chất mới.

2. LC50 (Nồng độ gây tử vong ở 50% loài thử nghiệm): Tương tự như LD50, LC50 là nồng độ của một chất cần thiết để gây tử vong ở 50% số loài thử nghiệm (thường là động vật nước), thường trong môi trường nước.

3. LOAEL và NOAEL (Lowest Observable Adverse Effect Level và No Observable Adverse Effect Level): Đây là các mức liều lượng của chất độc tương ứng với sự xuất hiện (LOAEL) hoặc không xuất hiện (NOAEL) bất kỳ tác dụng có hại nào trong quá trình thử nghiệm. LOAEL và NOAEL thường được sử dụng trong việc xác định ngưỡng an toàn của một chất trong việc tiếp xúc với con người.

4. Các chỉ số đánh giá rủi ro: Các tổ chức quốc tế như Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xây dựng các chỉ số như MRLs (Maximum Residue Limits) hoặc ADIs (Acceptable Daily Intake) để xác định các mức độ an toàn của các chất độc trong thực phẩm hoặc môi trường.

5. Các loại chất độc: Có nhiều loại chất độc gây acute toxicity, bao gồm hợp chất hóa học như kim loại nặng (chì, thủy ngân, thạch anh), thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt côn trùng, chất độc tự nhiên như rượu etylic, nicotine, cianua, độc tố từ vi khuẩn hoặc nấm độc.

Từ việc đánh giá acute toxicity, thông tin về mức độ độc tính của một chất cụ thể được sử dụng để xác định các biện pháp bảo vệ cá nhân, an toàn làm việc và quản lý các sản phẩm và chất độc.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "acute toxicity":

A new approach to practical acute toxicity testing
Fühner-Wieland's Sammlung von Vergiftungsfällen - Tập 54 Số 4 - Trang 275-287 - 1983
Measurement of pollutant toxicity to fish I. Bioassay methods for acute toxicity
Water Research - Tập 3 Số 11 - Trang 793-821 - 1969
Dự đoán cơ chế tác động độc hại từ cấu trúc hóa học: Độc tính cấp ở cá cá đầu đàn (Pimephales promelas) Dịch bởi AI
Environmental Toxicology and Chemistry - Tập 16 Số 5 - Trang 948-967 - 1997
Trong lĩnh vực độc học thủy sinh, các mối quan hệ định lượng giữa cấu trúc và hoạt động (QSAR) đã phát triển như những mô hình khoa học có uy tín cho việc dự báo độc tính của hóa chất khi chỉ có ít hoặc không có dữ liệu thực nghiệm. Trong những năm gần đây, quá trình phát triển và ứng dụng QSAR đã có sự tiến triển từ quan điểm về lớp hóa chất sang một hướng nhất quán hơn với các giả định về cơ chế tác động độc hại. Mục tiêu của nghiên cứu này là phát triển các quy trình liên quan đến cơ chế tác động độc hại cấp ở cá đầu đàn (Pimephales promelas) với các cấu trúc và tính chất hóa học. Một cơ sở dữ liệu được phát triển dựa vào thực nghiệm cho các cấu trúc hóa học đa dạng về độc tính cấp và những cơ chế tác động độc hại tương ứng thông qua các nghiên cứu tác động độc hại phối hợp, thiết lập hồ sơ động học độc, và sự diễn giải hành vi và phản ứng liều của các thử nghiệm LC50 kéo dài 96 giờ. Sử dụng kết quả từ những nỗ lực này, cùng với các nguyên tắc trong tài liệu độc học, khoảng 600 hóa chất được phân loại là chất gây tê (ba nhóm riêng biệt), chất làm mất liên kết của phosphor hoá oxy hóa, chất ức chế hô hấp, chất điện ly/điện ly trước, chất ức chế acetylcholinesterase, hoặc chất gây co giật hệ thần kinh trung ương. Sử dụng tập dữ liệu này, một hệ thống chuyên gia dựa trên máy tính đã được thiết lập, trong đó các cấu trúc hóa học được liên kết với các cơ chế tác động độc hại có khả năng xảy ra và, khi có, các QSAR tương ứng.
The zebrafish embryo model in environmental risk assessment—applications beyond acute toxicity testing
Springer Science and Business Media LLC - Tập 15 Số 5 - Trang 394-404 - 2008
Acute and chronic toxicity of veterinary antibiotics to Daphnia magna
Chemosphere - Tập 40 Số 7 - Trang 723-730 - 2000
Ty thể, Điều Hoà Canxi, và Tính Độc Kích Thích Cấp Tính của Glutamat trong Tế Bào Hạt Tiểu Não Nuôi Cấy Dịch bởi AI
Journal of Neurochemistry - Tập 67 Số 6 - Trang 2282-2291 - 1996

Tóm tắt: Khi tiếp xúc với tế bào hạt tiểu não nuôi cấy với 100 µM glutamat kết hợp glycine trong điều kiện không có Mg2+, sự tải canxi của ty thể tại chỗ xảy ra dẫn đến tính độc kích thích, được chứng minh bằng sự sụp đổ của tỷ lệ ATP/ADP của tế bào, sự mất điều hòa Ca2+ trong tế bào chất (không duy trì được nồng độ Ca2+ tự do ổn định trong tế bào chất) và khả năng chết tế bào lan rộng. Sự mất điều hòa Ca2+ do glutamat gây ra tăng cao khi có sự hiện diện của chất ức chế chuỗi hô hấp ti thể, rotenone. Tế bào được duy trì bởi ATP từ glycolysis, tức là có sự hiện diện của chất ức chế tổng hợp ATP của ti thể, oligomycin, vẫn tồn tại được trong vài giờ nhưng vẫn dễ bị hại bởi glutamat; do đó, sự gián đoạn tổng hợp ATP từ ti thể không phải là bước cần thiết trong tính độc kích thích của glutamat. Ngược lại, sự kết hợp giữa rotenone (hoặc antimycin A) và oligomycin, làm sụp đổ điện thế màng ti thể, ngăn chặn vận chuyển Ca2+ của ti thể, cho phép các tế bào tiếp xúc với glutamat duy trì được tỷ lệ ATP/ADP cao trong khi tích lũy ít 45Ca2+ và duy trì nồng độ Ca2+ tự do thấp trong tế bào chất, được đánh giá bằng fura-2. Kết luận rằng sự tích lũy Ca2+ ở ty thể là trung gian cần thiết trong tính độc kích thích của glutamat, trong khi dòng Ca2+ giảm vào các tế bào có ty thể đã khử cực có thể phản ánh sự ức chế ngược của thụ thể NMDA qua trung gian tích lũy Ca2+ tại một vi vùng tiếp cận được của ti thể.

#Glutamat #điều hòa canxi #ty thể #tế bào hạt tiểu não nuôi cấy #độc tính kích thích #chuỗi hô hấp #glycolysis #thụ thể NMDA.
Acute toxicity of nitrite on Litopenaeus vannamei (Boone) juveniles at different salinity levels
Aquaculture - Tập 224 Số 1-4 - Trang 193-201 - 2003
Thành phần arsenic trioxide duy nhất trong điều trị bệnh bạch cầu tủy bào cấp mới chẩn đoán: Điều trị lâu dài với tác dụng phụ tối thiểu Dịch bởi AI
Blood - Tập 107 Số 7 - Trang 2627-2632 - 2006
Tóm tắt

Arsenic trioxide, khi được sử dụng như một tác nhân đơn lẻ, đã chứng minh được hiệu quả trong việc gây ra sự thuyên giảm phân tử ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu tiền tủy bào cấp (APL). Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu về kết quả lâu dài khi sử dụng arsenic trioxide đơn lẻ trong điều trị các trường hợp mới chẩn đoán APL. Từ tháng 1 năm 1998 đến tháng 12 năm 2004, 72 trường hợp mới được chẩn đoán APL được điều trị với một quy trình sử dụng arsenic trioxide đơn lẻ tại trung tâm của chúng tôi. Thuyên giảm huyết học hoàn toàn đạt được ở 86.1% số bệnh nhân. Với thời gian theo dõi trung bình 25 tháng (khoảng: 8-92 tháng), ước tính Kaplan-Meier trong 3 năm của EFS, DFS và OS lần lượt là 74.87% ± 5.6%, 87.21% ± 4.93%, và 86.11% ± 4.08%. Những bệnh nhân được chẩn đoán với chỉ số bạch cầu (WBC) dưới 5 × 10^9/L và số lượng tiểu cầu cao hơn 20 × 10^9/L (n = 22 [30.6%]) có tiên lượng rất tốt với chế độ điều trị này (EFS, OS và DFS là 100%). Phần lớn, hồ sơ độc tính của chế độ điều trị là nhẹ và có thể đảo ngược. Sau khi gây thuyên giảm, chế độ điều trị này được thực hiện trên cơ sở ngoại trú. Sử dụng arsenic trioxide đơn lẻ như trong loạt nghiên cứu này trong việc quản lý các trường hợp mới chẩn đoán APL liên quan với các đáp ứng so sánh được với các chế độ hóa trị liệu truyền thống. Hơn nữa, chế độ này ít độc tính và có thể được thực hiện trên cơ sở ngoại trú sau khi gây thuyên giảm.

#arsenic trioxide #bệnh bạch cầu tiền tủy bào cấp #APL #điều trị đơn lẻ #thuyên giảm phân tử #hóa trị liệu #độc tính tối thiểu
Tổng số: 2,832   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10